Nội dung
ToggleICP là gì?
Internet Computer là một nền tảng điện toán đám mây mã nguồn mở được xây dựng bởi DFINITY Foundation – một tổ chức phi lợi nhuận có trụ sở tại Thuỵ Sĩ đã huy động được gần 200 triệu đô để phát triển dự án.
Dự án được thành lập và bắt đầu triển khai từ năm 2015. Tính năm 2018, ICP đã huy động được tới 195 triệu đô từ các nhà đầu tư để có thể bắt tay thực hiện hoá tham vọng của mình.
Dfinity Foundation là một tổ chức phi lợi nhuận được thành lập từ năm 2016, với 3 cơ sở nghiên cứu trên khắp thế giới, cho đến hiện tại đang có 188 thành viên trong tổ chức.
Tổ chức được thành lập ra với mục tiêu duy nhất hiện tại là phát triển giao thức Internet Computer, nhằm cải tiến những khiếm khuyết của hệ thống Internet hiện tại qua việc thay thế sự tồn tại của server đám mây bằng một server phi tập trung, được vận hành bởi các validators.
Quay lại với ICP, Internet Computer Protocol (ICP) là giao thức blockchain có khả năng quản lý, vận hành một mạng lưới dữ liệu bằng các node được chạy trên các máy chủ trên toàn thế giới. ICP sử dụng các smart contract có tên là các canisters, để tạo ra một blockchain có khả năng mở rộng cao và khả năng phát triển ứng dụng dễ dàng.
ICP Protocol có tính phi tập trung (DeFi), là một trung tâm dữ liệu không phụ thuộc vào bất cứ một hệ thống máy tính nhỏ lẻ nào, mà hoạt động bằng sự đóng góp của tất cả các máy tính cá nhân trong hệ thống. Điều này khiến cho bảo mật mạng lưới được đảm bảo, cũng như khiến cho quá trình phát triển frontend website trở nên dễ dàng khi người dùng có thể truy cập ứng dụng qua các trình duyệt web và điện thoại.
Quá trình phát triển ICP:
ICP đã được phát triển thông qua rất nhiều giai đoạn từ khi được Dfinity bắt đầu phát triển vào cuối năm 2016 được nói rõ như sau:
- Copper: Dfinity cho ra mắt phiên bản đầu tiên của ICP, mang tên the DFINITY Canister SDK (V0.3.0). Họ cũng cho ra mắt một ngôn ngữ lập trình mới đặc chuẩn cho việc phát triển dự án trên nền tảng mới này, sử dụng WebAssembly.
- Bronze: Ra mắt World Economic Forum – nền tảng mạng xã hội đầu tiên được phát triển trên ICP, mang tên là LinkedUp (phiên bản trên web mở của LinkedIn). Cùng trong giai đoạn này, một số ứng dụng demo khác cũng được khởi chạy trên ICP.
- Tungsten: Giai đoạn phát triển này cho phép các nhà phát triển có thể tham gia xây dựng dApp trên nền tảng ICP. Hệ sinh thái các cơ sở hạ tầng phục vụ nhà phát triển trên nền tảng được mở rộng nhanh chóng. Các hoạt động tiêu biểu có thể kể tới Tungsten Hackathon 48 giờ.
- Sodium: Ra mắt hệ thống quản trị thuật toán NNS, phục vụ quá trình quản trị nền tảng. Các validators muốn đóng góp vào bảo mật của nền tảng cần phải được hệ thống này xác nhận và cấp phép. NNS cũng xử lý việc trao thưởng cho các validators và delegators, từ đó đưa token ICP vào vận hành.
- Mercury: Mainnet của ICP ra mắt. Thời gian ra mắt được Dfinity thông báo lần đầu tiên vào 2018, nhưng lùi lại vào cuối năm 2020. Cuối cùng, dự án thông báo sẽ cho ra mắt public mainnet vào 07/05/2021.
Điều làm nên thương hiệu của ICP:
ICP được tạo ra nhằm mục đích giúp giải quyết những vấn đề còn tồn đọng trong hệ thống internet truyền thống hiện nay – chẳng hạn khả năng bảo mật thông tin kém, sự độc quyền dịch vụ internet của các nhà mạng hay những “lùm xùm” liên quan tới dữ liệu người dùng. Cấu trúc của Internet Computer Protocol bao gồm 4 tầng như hình phía dưới. Thông qua các smart contract được gọi là canisters, người dùng và các nhà phát triển có thể triển khai code, lưu trữ dữ liệu trên tầng trên cùng – Internet Computer Protocol. Sau khi tương tác với phần Protocol, dữ liệu sẽ đi xuống hai tầng dưới bao gồm ICP Protocol, IP/ Internet và tới Trung tâm dữ liệu người dùng.
Sử dụng Internet Computer Protocol sẽ cho phép người dùng tạo các website, phát triển dApps, hệ thống bằng cách đưa thẳng các dữ liệu phát triển lên trên mạng internet mở. Do đó các nhà phát triển và người dùng sẽ có quyền quyết định dữ liệu của mình được ai truy cập, trao lại quyền quản lý dữ liệu cho người dùng cuối. Bởi vậy, thông tin của người dùng dApp sẽ không rơi vào tay các chủ server, các nhà phát triển server như Facebook, Google,…
Để được chạy node trên nền tảng ICP, các validator phải được cấp chứng nhận DCID (Data Center Identity) thông qua cơ chế quản trị bằng thuật toán của hệ thống NNS (Network Nervous System). Dfinity Foundation nói rằng, khả năng thực hiện giao dịch trên nền tảng của họ sẽ chỉ tốn 3-5 giây – một con số đáng ngưỡng mộ so với nền tảng Ethereum hiện tại.
Thông tin token Internet Computer Protocol
- Tên token: Internet
- Computer Protocol Token
- Nhãn: ICP
- Blockchain: Dfinity
- Tổng nguồn cung: 469,213,710 ICP
Nơi để mua và sở hữu ICP:
Hiện tại, anh em có thể sở hữu đồng token này bằng cách mua trực tiếp trên các sàn giao dịch lớn như Coinbase, Binance, Huobi,…
Đội ngũ phát triển
- Founder :
– Dominic Williams – một chuyên gia nghiên cứu về tiền điện tử với nhiều bài nghiên cứu về công nghệ blockchain như chuỗi PSC, Validation Towers hay USCIDs,…
– Dominic từng có kinh nghiệm điều hành một trò chơi MMO được hỗ trợ bởi các quỹ đầu tư mạo hiểm với hàng triệu người dùng.
- Thành viên điều hành:
– Gian Bochsler – một entrepreneur có kinh nghiệm. Hiện đang là thành viên điều hành của DFINITY Foundation.
– Gian từng là co-founder của Bity – một sàn giao dịch tiền điện tử của Châu Âu.
– Ngoài ra, các thành viên khác đều là những người đã từng có nhiều thời gian hoạt động trong lĩnh vực tiền điện tử, blockchain.
Nhà đầu tư
Từ thời điểm thành lập cho tới cuối năm 2018, DFINITY Foundation đã huy động được tới 195 triệu đô (một con số có thể gọi là khổng lồ trong thời điểm mà khái niệm về tiền điện tử còn rất sơ khai). Những vòng gọi vốn này được dẫn đầu bởi hai nhà đầu tư “có tiếng” trên thị trường như a16z và Polychain. Ngoài ra còn có các cái tên khác như: Amino Capital, Multicoin Capital, SV Angel, Aspect Ventures, Village Global, Scalar Capital, KR1 và Amino Capital.
Kết luận:
Liệu tham vọng thay đổi hoàn toàn ngành công nghiệp Internet đã quá cũ kỹ, chậm chạp và đầy rẫy những “lùm xùm” liên quan tới dữ liệu người dùng ở thời điểm hiện tại của Internet Computer có thành hiện thực khi mà việc ICP được các “ông lớn” Coinbase, Binance, Huobi,… list ngay từ khi mới được ra mắt đã cho thấy tiềm năng của đồng tiền điện tử này.
Tuy nhiên, ICP chỉ mới ra mắt phiên bản mainnet vào ngày 10/5, cho nên các ứng dụng phi tập trung (dApps) chạy trên hệ sinh thái của dự án này còn rất sơ khai so với những mạng lưới khác. Đây cũng có thể được cho là cơ hội khai phá “miền đất hứa ” cho những nhà đầu tư ưa thích sự mạo hiểm.